“Thường, cả đời này, sai lầm của ta là bỏ lỡ nàng.”
…
Ngũ Tu Hiền vẫn còn đứng vững, chỉ có lưng đã lọm khọm đi nửa phần.
Hơn nửa đời này, ông đã đánh thắng vô số trận chiến, cũng không thiếu lần bại trận, không bàn đến thắng bại, mỗi lần đều sẽ có vô số người chết trận.
Thời chiến, tám trăm binh sĩ chết trận không coi là nhiều, nhưng tám trăm binh sĩ này, từng người đều là tinh binh tướng tài do đích thân Ngũ Tu Hiền dạy dỗ, coi như đại quân Khải triều có tập kích vây quét, bọn họ nhất định cũng có thể bảo vệ Thái tử phi và hoàng tự, giết ra khỏi trùng vây.
Nhưng tại sao Hỏa Môn Thương lại xuất hiện ở Nhạn Nam quan?
Đây chẳng thể nghi ngờ là đã rối loạn toàn bộ kế hoạch của Ngũ Tu Hiền.
Một sĩ quan theo hầu vội hỏi: “Ngũ lão, ngày ấy Hỏa Môn Thương được Yến Hồng vận chuyển về Lai Hải đã bị Hạ Lan Quân chặn lại cả rồi, Hạ Lan Quân bởi vậy mà thu về một vố lớn, sẽ không phải hắn chứ?”
“Không có khả năng lắm.” Lâm Kinh Phác cau mày nói: “Nếu Hạ Lan Quân muốn gây bất lợi cho Đại Ân, mười năm trước đã có thể quy thuận Bắc Cảnh Vương, không cần phải đợi đến hôm nay. Huống hồ Thiên Hành quan và Nhạn Nam quan cách xa vạn dặn, hắn phải biết tin tức trước, sau đó lại vượt núi băng đèo mai phục chặn giết, quá khó khăn.”
Ngũ Tu Hiền cũng tán thành thuyết pháp của y.
Thần sắc Lâm Kinh Phác hơi động.
Y bỗng dưng nghĩ đến, lúc trước Yến Hồng chưa từng chuyển toàn bộ Hỏa Môn Thương do Ngô Kỳ chế tạo về Lai Hải, mà còn dự bị lại phía sau một phần. Yến Hồng chết không nhắm mắt, khi còn sống chuyện ông ta tiếc nuối nhất là gì?
Đơn giản chỉ là không thể thay Ngụy Dịch diệt trừ chính y.
Liễu Hữu cũng muốn giết y, hẳn là vì hoàng tự. Cứ như vậy, Yến Hồng và Liễu Hữu, hoàng tự, ba bên vốn chẳng hề can hệ cũng dần bị một sợi tơ nhện bí ẩn liên kết lại với nhau.
Yến Hồng sớm đã biết đến sự tồn tại của hoàng tự Đại Ân, đây cũng là lợi thế khiến ông ta đề bạt Liễu Hữu!
Khớp xương trên mu bàn tay Lâm Kinh Phác lộ ra, mồ hôi lạnh thoáng thấm ướt vạt áo, lại chẳng có biểu tình mà đè nén ngàn câu vạn chữ xuống.
“Dụ Tài đâu?” Ngũ Tu Hiền trầm giọng hỏi.
Binh sĩ lắc đầu, nghẹn ngào nói không ra lời.
Lâm Kinh Phác lạnh giọng: “Có tin tức của Thái tử phi và hoàng tự không?”
“Thuộc hạ mai phục bên ngoài dịch quán, vẫn chưa tận mắt trông thấy Thái tử phi và hoàng tự… Không rõ sống chết ra sao!” Người kia triệt để chẳng kìm được nước mắt, vùi đầu gào khóc.
Lâm Kinh Phác và Ngũ Tu Hiền đều trầm mặc. Chẳng quản đau xót, bọn họ đã bị ép vào tử cục, tiến thoái lưỡng nan.
Phó tướng và tám trăm tướng sĩ chết trận tại Nhạn Nam quan, Thái tử phi và hoàng tự sinh tử chẳng rõ, nếu như bọn họ chẳng quan tâm mà tiếp tục trở về Tam Quận, về pháp không dung, về tình cũng chẳng hợp.
Nếu là hoàng tử hoặc tôn tử khác thì cũng thôi, cố tình đây lại là con trai Lâm Minh Chương, còn mồ côi từ trong bụng mẹ.
Cuối thời Đại Ân, thế gia ngang ngược, nội chính hỗn loạn, dân chúng khổ không thể tả, mà vong quốc tám năm nhưng lòng người không tán, quá nửa là vì hiền Thái tử Lâm Minh Chương.
Lâm Minh Chương vừa sinh ra đã được phong là Hoàng Thái tử, năm tuổi đã có thể luận bàn thơ văn, mười tuổi đi vào quân doanh cưỡi ngựa bắn tên, mười sáu tuổi xuất binh bình loạn cùng các tướng quân, hai mươi tuổi bàn luận chính trị, đưa ra biến pháp bách bài, bố chí nền chính trị nhân từ, thay đổi khoa cử, tước bỏ thuế ruộng, cân nhắc đến quan hệ giữa thế gia và hàn sĩ, khiến trong ngoài triều đình vô cùng tín phục.
Mà y lại là người đức hạnh cao thượng, là Thái tử giàu lòng nhân ái, xung quanh có bao lời khen ngợi lưu truyền, ca dao và cố sự, đến cả nhân duyên giữa y và Thái tử phi cũng được viết thành thoại bản, chuyển lên sân khấu, ca tụng muôn đời.
Quan chức cựu triều có biết bao người từng là người dưới trướng Thái tử, Ngũ Tu Hiền, Tào Vấn Thanh trở thành trọng thần cũng đều là vì được y thưởng thức đề bạt, mới có thể đánh vỡ cục diện lũng đoạn của thế gia trong triều.
Lâm Minh Chương là người có tài Đế Vương ngàn năm khó gặp. Cái gì của y cũng tốt, chỉ tiếc tráng niên mất sớm, chỉ để lại một thân mỹ danh và nghiệp lớn chưa thành, từ nay về sau trở thành Thánh nhân chẳng thể thay thế trong lòng người.
Lâm Kinh Phác có cần cù khắc khổ bao nhiêu cũng tự biết mình không thể tận tụy như hoàng huynh ngày ấy, chỉ có thể như mọi người, chiêm ngưỡng hào quang vô tận khi hoàng huynh còn sống.
Một năm qua, nhóm cựu thần phía Nam lên án tư tình của Lâm Kinh Phác và Ngụy Dịch, nghi kỵ chính Quân chủ của mình, hoàn toàn khát cầu một “Lâm Minh Chương” khác xuất thế. Cho nên một khi có sự tồn tại của hài tử kia, dĩ nhiên là có thể thuận theo lòng người, kế thừa mỹ dự của phụ thân mình.
Hoàng tự kia vô cùng quan trọng, dù có chết, cũng tuyệt không thể vì sai lầm của Lâm Kinh Phác và Ngũ Tu Hiền mà chết!
Lúc này, Lâm Kinh Phác mới suy nghĩ rõ ràng rằng vì sao ngày ấy Ngụy Dịch quyết phải nhổ cỏ tận gốc từ trên xuống dưới nhà họ Ninh. Nhưng y cũng chẳng nghĩ ra được, vì sao Ngụy Dịch phải giúp mình tiêu trừ hậu loạn?
Mà trước mắt, Ngũ Tu Hiền đã không thể chọn được nữa.
“Hỏa Môn Thương chỉ có thể đánh ở nơi trống trải bằng phẳng. Ba mươi dặm về hướng Đông Nhạn Nam quan có một hẻm núi, thần sẽ vô cùng cẩn thận.”
Ngũ Tu Hiền quyết định rất nhanh, nắm chặt vai Lâm Kinh Phác, quay đầu hô lớn một tiếng: “Mau điều hai mươi người theo ta đi về hướng Tây, những người còn lại dừng ngựa, đóng trại tại chỗ, bảo vệ Nhị gia và phu nhân!”
Ông chỉ cần hai mươi người là đủ để giết vào trận địa của địch.
Lâm Kinh Phác nghe mà sững sờ, vội vàng khuyên can: “Á phụ, con đường đi về hướng Tây nguy hiểm biết nhường nào, nếu chúng ta còn chưa tỉ mỉ thương nghị, đừng vội quyết đoán!”
“Không còn kịp rồi.” Ngũ Tu Hiền đã lưu loát xoay người lên ngựa, liếc nhìn chiếc xe ngựa kia, lại nói: “A Phác, chờ tiếp được hoàng tự và Thái tử phi, ta sẽ hội hợp cùng các ngươi. Đến lúc ấy dùng danh nghĩa của ngươi đón mẹ con bọn họ về cựu triều, như vậy có thể đảm bảo được việc ngươi ngồi chắc Đế vị tại Tam Quận.”
Lâm Kinh Phác do dự trong chốc lát, thấp giọng nói: “Nhưng Đế vị này vốn là hoàng huynh truyền cho ta trong lúc lâm nguy, nếu như muốn nhường ngôi…”
“A Phác!”
Ngũ Tu Hiền đánh gãy ý nghĩ hoang đường của y, nghiêm giọng mà nói: “Ngươi phải hiểu rằng, Thái tử chỉ là thuận theo dân tâm và Đế ý, còn phải đảm đương nhiều thứ hơn Hoàng Đế. A Chương có hình hài Đế Vương, tài đức vẹn toàn, có điều thiên hạ ngày ấy chẳng phải thái bình thịnh thế, nếu như y còn tại thế, đứng trong vị trí và tình cảnh như ngươi cũng chưa chắc có thể xuất sắc hơn được! Những năm nay, nếu không có ngươi, một mình á phụ cũng chẳng chống đỡ được đến bây giờ. A Phác, ngươi là Hoàng Đế tốt nhất.”
Đuôi mắt Lâm Kinh Phác khẽ nhúc nhích, chẳng nén được chua xót nơi đầu mũi: “… Đã là như vậy, á phụ lại càng chẳng nên đơn độc đi một mình.”
Ngũ Tu Hiền chỉ bật cười không nói.
Tạ Thường Thường ở trên xe ngựa đều nghe thấy cả.
Bà trầm lặng trong phút chốc, nghe Ngũ Tu Hiền phải đi, lúc này mới không nhịn được ngụm khí trong ngực, xuống xe gấp gáp hỏi: “Nhạn Nam quan là nơi cực địa, thường ngày căn bản chẳng hề có binh gia canh gác. Lá thư đó là do tự tay Thái tử phi viết, chúng ta cũng đã tranh thủ thời gian xuất binh đi cứu, tại sao lại trúng mai phục trùng hợp đến vậy?”
Ngũ Tu Hiền ghìm dây cương đúng lúc, nhìn về phía mi tâm nhíu sâu của Tạ Thường Thường, muốn nói lại thôi.
“Hơn một năm nay, A Phác ở thành Nghiệp Kinh, phố lớn ngõ nhỏ đầy kinh đều đang bàn luận, sao nàng có thể không biết. Nếu nàng muốn hồi Tam Quận, ắt có thể nghĩ biện pháp liên hệ với A Phác và Tào tướng quân, có điều nàng nhẫn nhịn chẳng nói, nhất định là lo lắng A Phác sẽ vì điều này mà để ý Đế vị Đại Ân, lặng yên không một tiếng động lấy đi tính mạng nàng và hoàng tôn! Bởi vậy có thể thấy được, nàng cũng vô cùng coi trọng Đế vị vốn thuộc về trượng phu nàng, nhi tử của nàng. Từ xưa tới nay, trong trận chiến tranh đoạn long ỷ, chuyện giết cha sát huynh đệ vốn đâu có hiếm thấy? Ngũ Tu Hiền, Thái tử phi rõ ràng là muốn ngươi nâng đỡ nhi tử của nàng làm Hoàng Đế Đại Ân, có thể nàng chỉ thấy Mao Dụ Tài, đáy lòng bất mãn, vì vậy nếu ngươi tới Nhạn Nam quan tiếp ứng một lần nữa, cũng chẳng phải không có khả năng nàng sẽ làm ra chuyện như vậy thêm một lần nữa!”
Ánh mắt Ngũ Tu Hiền thoáng sâu đậm, chẳng rõ ý tứ sâu xa mà nói: “Thái tử phi là khuê tú danh môn, có danh hiền lương thục đức, nàng sẽ không làm ra chuyện như vậy.”
“Nàng đã từng ở địa vị cao, mắt thấy qua quyền thế; cũng từng tới chiến trường, hưởng qua kho,ái cảm giết chóc. Lòng người dễ đổi, A Phác ở bên cạnh chúng ta nhiều năm đến vậy cũng chẳng giống như tám năm trước, làm sao ngươi dám cam đoan thù hận chiến trường sẽ không khiến nàng thay đổi hoàn toàn? Ngũ Tu Hiền, chỉ sợ lần này ngươi sẽ một đi không trở lại!”
Tạ Thường Thường nói, đột nhiên rũ vai thu sắc thái lại, chuyển đề tài đi: “Ta không lo lắng cho an nguy của ngươi, chẳng qua là cảm thấy không có giá trị, không bằng đưa A Phác về Tam Quận sớm chút đi.”
Khóe môi Ngũ Tu Hiền im lặng chuyển động, nói: “Chính là vì Đại Ân, vì A Phác, chuyến này ta nhất định phải tự thân mà đi.”
Tạ Thường Thường nhíu mày, cũng chẳng nể mặt Ngũ Tu Hiền mà nói thẳng: “Ngũ Tu Hiền, thời thế đổi thay, người người cũng vậy, chỉ có mình ngươi là không đổi. Ngươi vẫn là trung thần Đại Ân chẳng cẩu thả nửa phần, mọi chuyện đều phải đặt thể diện Hoàng gia lên hàng đầu!”
Lời nói của bà còn đong đầy ý tứ oán giận.
Hơn hai mươi năm trước, Tạ Thường Thường nữ giả nam trang đi từ Vi Châu đến Nghiệp Kinh, cũng muốn thi lấy một phen công danh, bà có tư cách.
Khi ấy, tên tuổi bà đã nở rộ dưới ngòi thơ mãnh liệt, chẳng viết phong hoa tuyết nguyệt, bi thương ai oán như các tiểu thư khuê các khác, mà là viết dân sinh, mắng quyền quý, văn từ rộng rãi lai láng, chỉ, một nét Vãn ca hành công kích hậu cung Hoàng gia xa hoa lãng phí đã vang danh thiên hạ, thậm chí truyền vào nội cung, bị trình lên trước mặt Ân Đế.
Ân Đế đọc xong giận tím mặt, liền lệnh cho Ngũ Tu Hiền đưa thi nhân không biết sâu cạn này đi nơi khác, lén lút xử quyết.
Ngũ Tu Hiền lại không muốn tính mạng bà, mà là động tâm, nhất thời khí phách, mạnh mẽ cưới bà làm vợ.
Mặc dù Ngũ Tu Hiền tinh thông binh pháp chính luận, tận trong xương cốt vẫn chỉ là kẻ thô bỉ không sánh được với văn nhân. Ông không hiểu lòng tự do vùng vẫy giữa đất trời trong thơ của bà, không phải tri kỷ của bà, cũng chú định sẽ chẳng có cách nào trở thành người trong lòng bà.
Bị vướng bởi Ân Đế, ông không thể làm gì khác ngoài lén lút giấu bà ở nơi biệt viện, âm thầm nuôi dưỡng, loáng một cái đã qua mười mấy năm, thơ văn của bà chất thành đống, chẳng một tấm nào có thể bay từ gian nhà ấy ra ngoài.
Chưa chắc Tạ Thường Thường đã không hận ông. Ngũ Tu Hiền vẫn luôn quên, thứ thi nhân coi trọng nhất không phải mệnh, mà là khí tiết.
“Thường, cả đời này, sai lầm của ta là bỏ lỡ nàng.”
Ngũ Tu Hiền chưa bao giờ tranh cãi ầm ĩ với bà, trong lòng chỉ cảm thấy tiếc hận áy náy. Ông nắm chặt dây cương trong tay, dặn dò sĩ quan bên cạnh: “Các ngươi phải bảo vệ phu nhân thật cẩn thận, nếu ta không kịp trở về trong năm ngày, các ngươi phải chạy về Tam Quận trước, không được chờ ta.”
Tạ Thường Thường thấy không ngăn được Ngũ Tu Hiền, mơ hồ siết chặt nắm tay nhỏ nhắn, kéo Trúc Sinh gần như đã bị dọa khóc vì tranh chấp vào lòng.
Lâm Kinh Phác thấy tình thế này, cũng muốn lên ngựa: “Liễu Hữu kia là kẻ vô cùng gian xảo, bọn họ còn có Hỏa Môn Thương, không dễ đối phó, ta đi cùng á phụ!”
Ngũ Tu Hiền không chịu để Lâm Kinh Phác mạo hiểm đi theo.
“A Phác, ông ta khăng khăng muốn đi chịu chết, vậy thì để ông ta đi!”
Tạ Thường Thường sai hai bên tả hữu kéo Lâm Kinh Phác về: “Những đạo lý ta nói, lòng ông ta đều hiểu, nhưng Ngũ Tu Hiền này lại muốn làm liệt sĩ, một lòng trung tâm chẳng dị nghị, nếu như thế, sao chúng ta không tác thành cho danh tiết của ông ta!”
Mặt mày Ngũ Tu Hiền vẫn chẳng có nửa phần giận giữ, ngắm nhìn Tạ Thường Thường, cúi đầu chắp tay với bà: “Phu nhân cẩn trọng, chờ ta trở về.”
Tiếng vó ngựa đã càng đi càng xa.
Tạ Thường Thường theo bản năng mà bước về phía trước hai bước, cũng chẳng thấy được gì nữa. Bà ngồi xổm người xuống, ôm Trúc Sinh đã mơ hồ khóc đến run người, nhẹ giọng ủi an.
Bà không khóc, có điều viền mắt đã đỏ cả.
Chí khí một thời hoa niên đều đã qua, nhân vật chính trong thơ của Tạ Thường Thường từ lâu đã chẳng còn do dự vì thanh xuân, cũng chưa bao giờ luyến lưu oanh trù yến lữ. Có điều bà cũng chẳng ngờ rằng, sai lầm ngày ấy đi theo cả một đời, cuối cùng nam nhân này vẫn in dấu thật sâu dưới đáy lòng bà.